Ý nghĩa của Ấn triện trước khi có Ngọc tỷ Ngọc tỷ truyền quốc

Ấn triện thực chất là một con dấu. Thời cổ đại, Ấn triện mang ý nghĩa là bằng chứng của quyền lực chính trị của người mang Ấn. Với mỗi chức quan hay tướng quân đội đều có Ấn và người cầm Ấn được coi là người có thực quyền trong tay. Không còn Ấn là không còn quyền. Viên quan nào bị tội phải bãi chức hay bị điều nhậm nơi khác thì phải trả lại Ấn cho triều đình.

Mỗi Ấn triện quy định quyền hạn theo lĩnh vực, quan văn có Ấn riêng và quan võ có Ấn riêng. Vua trao quân sĩ cho một người dưới quyền mình có kèm theo Ấn tướng quân và vị tướng này có toàn quyền chỉ huy quân đội. Chừng nào Ấn còn trong tay vị tướng thì vị tướng đó còn toàn quyền chỉ huy với đội quân đó; khi bị thu Ấn tức là không còn quyền chỉ huy. Trên nguyên tắc, quân sĩ luôn nghe theo người mang Ấn. Chính vì vậy trong thời Hán Sở tranh hùng, khi Lưu Bang bị Hạng Vũ đánh bại ở Thành Cao, phải bỏ trốn đến Tu Vũ với hai tướng dưới quyền là Hàn TínTrương Nhĩ. Vì sợ Hàn Tín không nghe mình nên Lưu Bang đã phải nhân lúc Hàn Tín ngủ mà lấy trộm Ấn tướng quân để ra lệnh cho quân sĩ. Hàn Tín và Trương Nhĩ tỉnh dậy mới biết Lưu Bang đã thay đổi hết nhân sự mà mình sắp đặt. Sự việc đó được sử sách gọi là "Lưu Bang cướp quân của Hàn Tín", hành động tượng trưng là việc cướp Ấn tướng.

Việc dùng Ấn làm bằng chứng bổ nhiệm quan lại thực hiện từ thời Đông Chu, gọi là Tỷ, có thể làm bằng kim loại hoặc bằng ngọc, gọi là Quan ấn (官印). Ấn của vua hoặc quan đóng lên văn thư gọi là Tỷ thư (璽書 - văn bản có đóng dấu triện).